PHẦN MỞ ĐẦU:

Họ tên NCS: Hứa Thanh Thủy

Tên đề tài luận án: Kết quả triển khai mô hình thí điểm quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em taị cộng đồng ở hai tỉnh Hòa Bình và Thái Binh

Chuyên ngành: Y tế công cộng  

Mã số: 9720701

Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thanh Hương và TS. Nguyễn Thị Hương Giang  

Tên cơ sở đào tạo: Trường Đại học Y tế công cộng

 

PHẦN NỘI DUNG

  1. Mục đích và đối tượng nghiên cứu:

Ở Việt Nam, tỷ lệ trẻ rối loạn tự kỷ (RLTK) ngày càng tăng kéo theo các gánh nặng lớn cả về vật chất và tinh thần không chỉ đối với các gia đình có trẻ tự kỷ và còn với cả xã hội. Tổ chức Y tế thế giới và nhiều tổ chức quốc tế khác đã đặt mối quan tâm vào vấn đề RLTK và kêu gọi các quốc gia cần có những hành động quản lý trẻ RLTK một cách toàn diện. Sau một năm triển khai mô hình thí điểm quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng ở hai tỉnh Hòa Bình, Thái Bình, áp dụng kết hợp giải pháp can thiệp truyền thông tại cộng đồng và tác động lên hệ thống y tế, nghiên cứu đánh giá sự thay đổi về kiến thức, thái độ, thực hành của người chăm sóc trẻ (NCST), giáo viên mầm non (GVMN) và nhân viên y tế (NVYT) về RLTK ở trẻ em và đánh giá tính phù hợp và khả thi của mô hình thí điểm quản lý rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng đồng.

  1. Các phương pháp nghiên cứu đã sử dụng:

Nghiên cứu can thiệp so sánh trước - sau không có nhóm chứng, kết hợp nghiên cứu định tính ở giai đoạn sau khi đã kết thúc và có số liệu sơ bộ kết quả định lượng. Thu thập số liệu trước can thiệp (TCT) vào tháng 01/2017, can thiệp tiến hành từ tháng 01-12/2018, thu thập số liệu sau can thiệp (SCT) vào tháng 1 năm 2019.

Các giải pháp can thiệp được triển khai bao gồm truyền thông tại cộng đồng (treo banner, áp phích; phát tờ rơi, sách mỏng; bài phát thanh, clip) hướng tới ba nhóm đối tượng đích: NCST, GVMN và NVYT và tác động lên hệ thống y tế (tập huấn nâng cao năng lực, xây dựng quy trình, biểu mẫu, hỗ trợ trang thiết bị..).

Nghiên cứu định lượng: sử dụng công thức tính cỡ mẫu so sánh 2 tỷ lệ, phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn (chọn ngẫu nhiên xã/phường sau đó tiếp tục chọn ngẫu nhiên hoặc toàn bộ ĐTNC). Cỡ mẫu thực tế (tương ứng TCT và SCT): NCST là 193 và 226; GVMN là 182 và 171; NVYT là 300 và 295. Các biến số chính: kiến thức, thái độ, thực hành về RLTK ở trẻ. Sử dụng phần mềm SPSS 25 để phân tích mô tả, so sánh trước sau can thiệp và phân tích điểm xu hướng (PSM) để đánh giá kết quả can thiệp. Nghiên cứu định tính: chọn mẫu có chủ đích: 14 cuộc TLN và 15 cuộc PVS và 01 hội thảo chuyên gia với 108 người tham gia nghiên cứu.

  1. Các kết quả chính:

Kết quả nghiên cứu đã cho thấy các hoạt động can thiệp đạt mang lại nhưng thay đổi đáng kể về cả kiến thức, thái độ và hành vi ở cả 3 nhóm đối tượng đích. NCST, GVMN và NVYT đã có sự cải thiện về kiến thức liên quan đến các dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc RLTK (tỷ lệ đối tượng trả lời đúng tăng lên 10-30% tại thời điểm SCT so với TCT) và loại bỏ những sai lầm trong điều trị RLTK (tỷ lệ đối tượng trả lời đúng tăng lên 10-40% tại thời điểm SCT so với TCT). Về thái độ, tại thời điểm SCT, điểm trung vị thái độ của cả ba nhóm đối tượng đều cao hơn so với TCT, tuy nhiên sự thay đổi này không có ý nghĩa thông kê đối với nhóm NCST và GVMN. Về thực hành, tại thời điểm SCT, đa số đối tượng (90%) ở cả ba nhóm NCST, GVMN và NVYT đều đã có xử trí đúng nhất khi nghi ngờ trẻ mắc RLTK.

Mô hình thí điểm được đánh giá là phù hợp và khả thi ở các khía cạnh: các hoạt động can thiệp phù hợp với đối tượng đích, đặc điểm về văn hóa, xã hội của địa bàn can thiệp; mô hình vận hành dễ dàng dựa trên nguồn lực (nhân lực, cơ sở vật chất, tài chính) sẵn có hoặc được lồng ghép với các chương trình y tế đang được thực hiện ở các tuyến. Mô hình được đánh giá là cần thiết và được ủng hộ bởi các bên liên quan. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số khó khăn (năng lực CBYT tuyến dưới, sự kỷ thị đối với trẻ RLTK và một số vấn đề về chính sách bảo hiểm y tế) cần được khắc phục để có thể nâng cao tính khả thi của mô hình trong tương lai.

  1. Kết luận và khuyến nghị:.

Các hoạt động can thiệp đạt mang lại nhưng thay đổi đáng kể về cả kiến thức, thái độ và hành vi ở cả 3 nhóm đối tượng đích. Mô hình thí điểm được đánh giá là phù hợp và khả thi ở nhiều khía cạnh. Cần tiếp tục duy trì và mở rộng mô hình ở các địa bàn có điều kiện xã hội, kinh tế tương tự. Cần có các can thiệp với thời gian dài hơn để đánh giá kết quả trực tiếp của mô hình (Số lượng trẻ RLTK được quản lý, tình trạng của trẻ RLTK được đưa vào mô hình quản lý)

 

NHỮNG ĐÓNG GÓP/ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN ÁN:

Đây là nghiên cứu can thiệp đầu tiên tại Việt Nam cung cấp bằng chứng về hiệu quả, tính phù hợp và khả thi của mô hình thí điểm quản lý RLTK ở trẻ em tại cộng đồng. Cách tiếp cận xây dựng mô hình quản lý dựa trên tính sẵn có của hệ thống y tế và bắt đầu từ nhóm cộng đồng, giúp phát hiện sớm và giải quyết vấn đề RLTK từ khi trẻ còn nhỏ, không chỉ hướng vào các nhóm đã được chẩn đoán xác định RLTK như trong các nghiên cứu trước đây.

Nghiên cứu đã xây dựng các giải pháp can thiệp, kết hợp hoạt động truyền thông tại cộng đồng và tác động lên hệ thống y tế. Trong đó, chương trình truyền thông cộng đồng về RLTK đã áp dụng cách tiếp cận giáo dục sức khỏe, truyền thông thay đổi hành vi và trao quyền hướng tới cả ba đối tượng đích: NCST, GVMN và NVYT. Các hoạt động truyền thông được triển khai đều dựa trên cơ sở đánh giá nhu cầu có sự tham gia của đối tượng đích, các bên liên quan tại địa phương, kết hợp nghiên cứu tổng quan tài liệu và tham vấn ý kiến chuyên gia.

Nghiên cứu đã xây dựng được bộ câu hỏi đo lường kiến thức, thái độ, thực hành của NCST, GVMN và NVYT dựa trên kết quả tổng quan các bộ công cụ trên thế giới. Quy trình xây dựng và kết quả kiểm định đã cho thấy bộ công cụ sử dụng trong nghiên cứu đảm bảo về chất lượng và có thể được tham khảo và áp dụng cho các nghiên cứu tiếp theo.

Nghiên cứu đã phát triển, thử nghiệm và sử dụng một số sản phẩm truyền thông (tờ rơi, sách mỏng, áp phích, banner, bài phát thanh) và tài liệu đào tạo cho y tế cơ sở (xã, huyện). Kết quả đánh giá sau can thiệp cho thấy các tài liệu truyền thông là phù hợp với văn hóa, trình độ của đối tượng đích; sự kết hợp đa hình thức truyền thông trong can thiệp là phù hợp và cho hiệu quả tích cực trong việc nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành về RLTK trên các nhóm đối tượng đích. Các hoạt động truyền thông được triển khai trên địa bàn dựa trên nguồn lực sẵn có từ hệ thống y tế cơ sở và địa phương, nên đảm bảo tính duy trì và tính bền vững.

Nghiên cứu đánh giá tính phù hợp và khả thi của mô hình trên nhiều khía cạnh, dưới góc độ của nhiều bên liên quan: những người trực tiếp tham gia vận hành thí điểm mô hình, những nhà chuyên môn và nhà hoạch định chính sách từ trung ương đến y tế cơ cơ và cả liên ngành (lao động thương binh xã hội và giáo dục).

Nghiên cứu sinh

 

 

 

Hứa Thanh Thủy

Tệp pdf: